HIỆP HỘI QUỸ TÍN DỤNG NHÂN DÂN VIỆT NAM
0 Đồng thuận
0 Bình luận
Xem xét sửa đổi theo hướng miễn tính thuế TNCN đối với các thành viên QTDND, thành viên hợp tác xã khi nhận được lợi tức từ góp vốn
Đơn vị chủ quản: Bộ Tài chính
Kết thúc ngày 05/01/2024
Quy định liên quan
Nội dung vướng mắc

Khoản 3 Điều 3 Luật Thuế TNCN số 04/2007/QH12.Điều 3. Thu nhập chịu thuế.3. Thu nhập từ đầu tư vốn, bao gồm:a) Tiền lãi cho vay;b) Lợi tức cổ phần;c) Thu nhập từ đầu tư vốn dưới các hình thức khác, trừ thu nhập từ lãi trái phiếu Chính phủ.Luật sửa đổi bổ sung một số điều của các luật về thuế số 71/2014/QH13 quy định thuế suất thuế TNCN đối với thu nhập từ đầu tư vốn là 5%.Theo các quy định nêu trên, trường hợp cá nhân góp vốn vào QTDND, hợp tác xã khi nhận được lợi tức từ việc tham gia góp vốn vào QTDND, hợp tác xã thì đây là thu nhập từ đầu tư vốn phải chịu thuế TNCN theo quy định của Luật Thuế TNCN và các văn bản hướng dẫn thi hành.Căn cứ Thông tư 21/2019/TT-NHNN ngày 14/11/2019 của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định góp vốn thành viên QTDND bao gồm: Vốn góp xác lập tư cách thành viên (ngay khi tham gia QTDND, mức tối thiểu 300.000đ) và mức vốn góp bổ sung của thành viên QTDND thực hiện theo quy định tại Điều lệ của QTDND…Hằng năm, QTDND chi trả tiền lãi từ vốn góp cho các thành viên: 30.000đ-45.000đ/1 thành viên. Số Thuế TNCN của một thành viên phải nộp một năm giao động từ 1.500đ-2.500đ/1thành viên/1 năm. Tính đến thời điểm 31/12/2022. Tổng số QTDND: 1.179 quỹ hoạt động 57 tỉnh, thành phố. Tổng số thành viên: 1,513 triệu (bình quân 1 QTDND có 1.283 thành viên). - Khó khăn trong việc nộp Thuế TNCN cho các thành viên:QTDND hoạt động chủ yếu ở các xã, phường, thị trấn, vùng sâu, vùng xa, thành viên của các QTDND là những người dân trên địa bàn gửi tiền và vay vốn để nuôi trồng, đánh bắt, làm nghề thủ công…Họ có mức thu nhập thấp vì thế đa phần không thuộc diện kê khai nộp thuế TNCN dẫn đến cơ quan thuế chưa cấp mã số Thuế TNCN cho họ. Các QTDND để đóng Thuế TNCN cho các thành viên kể trên (QTDND quy mô nhỏ có gần 1.000 thành viên; QTDND có quy mô hơn lên đến 10.000 thành viên) QTDND phải thu thập thông tin của các thành viên, kê khai từng người để xin cấp mã số thuế từ cơ quan thuế và hằng năm QTDND phải xin ủy quyền của tất cả các thành viên của QTDND để thực hiện việc quyết toán Thuế TNCN cho các thành viên. Công việc này gây rất nhiều khó khăn cho các QTDND, các QTDND không thể thực hiện được, dẫn đến các QTDND chỉ biết nộp tổng số tiền đã trích về cơ quan thuế. Cơ quan Thuế cũng gặp khó khăn trong việc giải quyết vấn đề này, nhiều lần Tổng cục thuế đã phải để treo số tiền thuế trên vì nguyên nhân là Thuế TNCN phải kê khai nộp từng người đề nghị các QTDND dừng nộp để kê khai lại cho đúng.Từ năm 2020, nhận thấy việc kê khai nộp thuế đối với số tiền thuế phát sinh phải nộp hằng năm sau quyết toán Thuế TNCN từ tiền lương, tiền công từ 50.000 đồng trở xuống, không còn phù hợp nên ngày 01/07/2020, theo điểm b, khoản 79 Luật Quản lý Thuế 38/2019/QH14, quy định miễn thuế đối với cá nhân này.Từ những thực tế trên, việc nộp thuế TNCN của các thành viên góp vốn để sử dụng các dịch vụ ở các QTDND với số tiền không nhiều (hầu hết chỉ khoảng vài chục nghìn đồng) nhưng kéo theo rất nhiều những thủ tục và làm tăng thêm số bảng kê và nghiệp vụ hạch toán kế toán lên nhiều lần, ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu suất hoạt động của QTDND.

Nội dung đề xuất

Hiệp hội đề xuất Chính phủ, Quốc hội xem xét sửa đổi theo hướng miễn tính thuế TNCN đối với các thành viên QTDND, thành viên hợp tác xã khi nhận được lợi tức từ góp vốn hoặc quy định mức trần lợi tức tính thuế TNCN cho phù hợp để tạo điều kiện cho hợp tác xã và QTDND thu hút được nhiều thành viên góp vốn để phát triển vững mạnh, giám tải các thủ tục hành chính phù hợp với mục tiêu “Tài chính toàn diện” của Chính phủ.

Văn bản QPPL đươc yêu cầu bãi bỏ sửa đổi
Gửi vướng mắc, đề xuất